Chủ Nhật, 15 tháng 4, 2012

VÌ SAO HỌC SINH KHÔNG YÊU MÔN SỬ


GS.NGND Phan Huy Lê:
Học sinh chán Sử là do người lớn
Lớp trẻ chán ôn Sử chủ yếu là do người lớn, trong đó có những nhà khoa học lịch sử, nhưng trước hết là cơ quan quản lý chức năng về ngành Sử, GS.NGND Phan Huy Lê nói.
 >>  Cảm phục nữ thủ khoa đạt 9,5 điểm môn Sử

Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê.

GS.NGND Phan Huy Lê nói: Chúng ta đã vượt qua ngưỡng thu nhập thấp để trở thành nước có thu nhập trung bình từ 2008. Đây là thời kỳ chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế.

Trong bối cảnh như vậy mà không trang bị cho công dân hiểu biết lịch sử, niềm tự tin ở đất nước và dân tộc mình, không có một bản lĩnh của con người Việt Nam thì hội nhập kiểu gì đây?

Có những nền văn minh, nền văn hóa để lại các công trình kỳ vĩ. Tiếp xúc với các nền văn hóa đó, nếu bạn trẻ không được trang bị một vốn kiến thức cần có về lịch sử nước nhà, các em dễ rơi vào trạng thái mặc cảm, tự ti. Từ chỗ tự ti tới thiếu bản lĩnh.

Điều này rất nguy hiểm với mỗi cá nhân vì nó sẽ làm mất định hướng cho cả cuộc đời. Cho nên, chúng ta phải giúp lớp trẻ ra đời hội nhập có được niềm tự tin chính đáng, thấy được cái hay, cái đẹp nhưng cũng thấy được các mặt hạn chế của đất nước, trên cơ sở đó đặt ra trách nhiệm của thế hệ trẻ phải đóng góp xây dựng đất nước thế nào, bảo vệ đất nước trong bối cảnh mới thế nào.

Niềm tự tin đó được tạo lập bởi sự góp phần của nhiều môn học trong nhà trường phổ thông, nhưng môn Sử là một trong những môn cơ bản nhất.

Tuy nhiên, môn Sử hiện nay lại bị học sinh nói chung cũng như nhiều giáo viên xem là môn phụ?

Từ nhiều năm nay, dư luận rất lo lắng về chất lượng dạy và học môn Sử trong trường phổ thông. Nhưng mọi bàn luận mới chỉ dừng ở mức chung chung, cảm tính.

Theo tôi, đã đến lúc chúng ta phải đặt lên bàn các cơ quan có trách nhiệm vấn đề nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan thực trạng dạy và học Sử hiện nay.

Không phải là không có những người vẫn cố tình bào chữa, cho rằng việc dạy và học môn Sử vẫn đạt được nhiều tiến bộ.

Tiến thì có thể có tiến, nhưng những học sinh thích môn Sử vẫn là thiểu số. Số coi môn Sử là môn học thuộc lòng, của trí nhớ để từ đó thờ ơ với nó vẫn là phổ biến.

Điều đó không chỉ thể hiện trong kết quả các kỳ thi chính thức do ngành GD&ĐT tổ chức mà còn thể hiện trong những cuộc thi ngoài xã hội.

Chẳng hạn, trong những games show trên truyền hình, có những câu hỏi rất sơ đẳng, rất cơ bản về lịch sử và văn hóa Việt Nam nhưng thí sinh không trả lời được.

Thực tế trên là kết quả của một hệ thống các sai lầm, trong đó cơ bản nhất là sự nhận thức về vị thế của môn Sử trong giáo dục phổ thông. Vị thế đó như thế nào? Chúng ta chưa rõ.
Chúng ta chỉ nhìn thấy môn Sử bị đối xử như là môn phụ, thi cũng được, không thi cũng được. Năm nào không thi thì bị nhiều nơi dồn kiến thức cả năm thành một học kỳ cho các em học.


Lễ tuyên dương và trao thưởng cho 211 em đoạt giải học sinh giỏi môn lịch Sử cấp quốc gia được tổ chức ngày 14/4/2012 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám. 

Sử cho trẻ con không có nghĩa là tóm tắt sử người lớn 

Theo nhiều học sinh, không chỉ vì cơ chế thi cử mà các em thờ ơ với môn Sử mà cái chính là vì môn này quá khó…

Vấn đề ở chỗ chúng ta chưa biết dạy cho hấp dẫn. Sử học rất đa dạng, nội dung rất phong phú. Nhưng cái khó của chúng ta là chưa trả lời được câu hỏi này một cách khoa học: Dạy Sử ở phổ thông là nhằm vào cái gì? Trả lời được câu hỏi đó rồi thì ta mới tìm ra được nội dung vừa hứng thú vừa cần thiết cho xã hội.

Dạy ở phổ thông hiện nay gần như là tóm tắt lịch sử của người lớn và bắt trẻ con phải học, các em chán nản là phải thôi.

Sử học thì mênh mông và liên tục cập nhật. Dạy cái gì? Dạy để làm gì? Dĩ nhiên không phải là dạy tất cả các sự kiện lịch sử. Những cái đó các em có thể tra cứu. Với thời đại internet bây giờ, tìm trên Google có đủ hết cả.

Cái quan trọng là dạy Sử không phải chỉ dạy các chứng cớ lịch sử mà là khắc vào tình cảm, trong tâm khảm các em niềm yêu thích lịch sử của đất nước mình, dân tộc mình, niềm tự tin, sự hiểu biết những giá trị tiêu biểu hình thành nên tính cách, bản lĩnh của con người Việt Nam. Và các em có trách nhiệm kế thừa và phát huy tất cả những cái đó.

Cái mà tôi đặc biệt quan tâm là phương pháp dạy Sử. Phải làm sao để học sinh tự nguyện, say mê và phải kích thích được trí thông minh, sáng tạo của các em.

Phải đối xử với các em với tư cách là chủ thể nhận thức về Sử một cách say sưa và chủ động chứ không phải là áp đặt.

Lễ tuyên dương học sinh giỏi quốc gia môn Sử được tổ chức cuối tuần qua tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám là lễ vinh danh đầu tiên ở quy mô quốc gia những em học giỏi và yêu thích môn Sử. Phải chăng đây là sự kiện đánh dấu bước ngoặt về nhận thức của xã hội đối với môn Sử?
Truyền thống quý báu của người Việt Nam là yêu lịch sử. Nhưng tại sao lớp trẻ của chúng ta không yêu Sử? Rõ ràng không phải tự môn Sử, tuyệt nhiên càng không phải là lỗi của các em học sinh.

Lỗi chính là ở người lớn, trong đó có cả lỗi từ các nhà khoa học lịch sử, nhưng trước hết lỗi là ở các cơ quan chức năng quản lý ngành sử, quản lý việc dạy và học Sử trong nhà trường.

Làm thế nào để thu hút sự quan tâm của xã hội vào sử, khích lệ học sinh tìm đến môn Sử, yêu mến môn Sử là trăn trở của chúng tôi, những nhà nghiên cứu lịch sử.

Quỹ Phát triển Sử học Việt Nam ra đời với một trong những hoạt động vinh danh học sinh giỏi Sử là một công cụ giúp chúng tôi có điều kiện khuyến khích, cổ vũ tinh thần học Sử của các em học sinh.

Tất nhiên, tôi không bao giờ có ảo tưởng cho rằng chỉ bằng hình thức vinh danh nào đó mà thay đổi được căn bản và toàn bộ chất lượng giáo dục môn Sử ở nhà trường phổ thông hiện nay.

Hai điều kiện

Theo giáo sư, đâu là giải pháp thay đổi căn bản và toàn bộ chất lượng giáo dục môn Sử ở nhà trường phổ thông?

Muốn giải quyết vấn đề chất lượng dạy và học sử cần phải có hai điều kiện. Một là phải có giải pháp toàn bộ với cả hệ thống giáo dục phổ thông. Như chúng ta đã biết, Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua đưa ra yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT.

Hiện nay, Bộ GD&ĐT và các cơ quan chức năng đang nghiên cứu để đưa ra một kế hoạch có thể nói là thực chất là cải cách GD&ĐT. Trong cải cách giáo dục đó dĩ nhiên là cả môn Sử.

Hai là với môn Sử cũng phải giải quyết một cách toàn bộ và có hệ thống. Từ nhận thức về vị thế của môn Sử, yêu cầu của môn Sử ở phổ thông là cái gì, từ đó mới đi vào xây dựng chương trình, biên soạn SGK, rồi đào tạo giáo viên Sử, phương pháp dạy Sử.

Tôi rất mừng vì vừa rồi Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã ký với Bộ GD&ĐT một bản ghi nhớ trong đó xác định trách nhiệm của hai bên là cùng nhau nghiên cứu hết sức có trách nhiệm tìm cho ra nguyên nhân sa sút của môn Sử hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp, giải pháp toàn bộ để khắc phục tình trạng này.

Tất nhiên, con đường đó không thể một hai năm mà thay đổi được. Nhưng phải tiến hành ngay lộ trình này, không thể chậm trễ.

Tôi rất tin, nếu có sự quan tâm của các cơ quan chức năng quản lý và được sự tham gia của giới sử học, của thầy giáo, cô giáo, của giới chuyên gia rất tâm huyết với môn Sử và sự quan tâm của xã hội thì không có lý do gì chúng ta không khắc phục được tình trạng dạy học Sử như thế này.

Chúng ta sẽ chấn hưng môn Sử, đưa môn Sử về đúng vị trí, chức năng của nó, nhất là trong bối cảnh hiện nay của đất nước.

Cảm ơn giáo sư.

Bản thân tôi lúc đầu cũng không định lập nghiệp bằng Sử. Tôi nghĩ mình có sở trường về Toán, Lý. Sau khi học phổ thông, tôi học dự bị đại học, lúc đó, cơ sở đào tạo đặt ở Thanh Hóa.

Từ Hà Tĩnh ra Thanh Hóa đi bộ mất 7 ngày đêm, khi tôi ra đến nơi chậm mất 3 ngày, môn Toán, Lý hết chỗ. Số học sinh đến chậm đều được nhà trường cho học Văn, Sử. Nhưng học Sử rồi thì tôi nhận thấy đó là một môn học rất hấp dẫn.

Thật ra, môn nào cũng có vị trí của nó trong xã hội. Vấn đề là mình nhận thức được ý nghĩa của nó, vai trò của nó trong cuộc sống hiện nay như thế nào.
Đến nay, nếu cho tôi chọn lại từ đầu, tôi dứt khoát chọn môn Sử, không phải vì mình nhỡ đường mà bởi mình tìm thấy trong đó sự hứng thú rất lớn là được tìm hiểu về lịch sử, về văn hoá đất nước, về lịch sử các nền văn minh thế giới. Từ quá khứ mình hiểu thêm hiện tại, có niềm tin ở tương lai -GS.NGND Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

Theo Quý Hiên
Tiền Phong

Thứ Tư, 11 tháng 4, 2012

NGUYÊN NHÂN SỤP ĐỔ CỦA MÔ HÌNH CNXH Ở LIÊN XÔ

Ra đời và tồn tại gần 74 năm (1917-1991) chủ nghĩa xã hội theo mô hình Soviet (chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô) đã đạt được những thành tựu to lớn:
Thứ nhất, trên phạm vi toàn xã hội không còn giai cấp bóc lột. Mọi người lao động đều làm công ăn lương dưới sự lãnh đạo, quản lý của những người cộng sản hết lòng vì sự nghiệp chung, nhất là trong giai đoạn đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; qua đó, khơi dậy được cao trào lao động quên mình trong đời sống xã hội, tạo nên bước phát triển nhảy vọt về kinh tế - xã hội. Chỉ sau hai kế hoạch 5 năm thực hiện công nghiệp hóa (1929 - 1939), đã tạo ra tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, đủ sức đánh trả chiến tranh phátxít. Những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô trở thành cường quốc về quân sự và kinh tế, đi đầu trong lĩnh vực chinh phục không gian vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác.
Thứ hai, mọi nguồn lực xã hội đều do Nhà nước quản lý nên có thể tập trung phát triển nhanh công nghiệp nặng, xây dựng kết cấu hạ tầng, giải quyết các vấn đề giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội. Dưới thời Soviet, nhiều ngành công nghiệp hiện đại được hình thành, phát triển; hệ thống giao thông, liên lạc được xây dựng và hoàn thiện; hàng loạt công trình văn hóa, trung tâm khoa học - công nghệ được mọc lên; giáo dục không phải trả tiền, mọi người đều được đi học, ai có khả năng thì học cao hơn, trở thành kỹ sư, bác sĩ, phó tiến sĩ, tiến sĩ để đóng góp tài năng cho đất nước; chữa bệnh không phải trả tiền, người già được chăm sóc, nuôi dưỡng; mọi người thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau... Với trình độ kinh tế - xã hội như Liên Xô trước đây, có thể nói, không có một quốc gia nào lại giải quyết được những nhiệm vụ ấy và có quan hệ giữa người và người tốt đẹp như thế.
Thứ ba, toàn xã hội đoàn kết thành một khối, chung một ý chí, dưới sự chỉ huy thống nhất, tạo nên sức mạnh có thể đánh bại tất cả các cuộc tiến công của các thế lực đế quốc từ bên ngoài, càng đánh càng mạnh và chiến thắng. Ngay từ khi còn non trẻ, chính quyền Soviet đã phải chống lại sự can thiệp của 14 nước đế quốc bên ngoài và giành thắng lợi. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân Liên Xô đã đánh bại phátxít Đức và đánh tan đội quân Quan Đông của Nhật Bản.
Thứ tư, Liên Xô là thành trì của cách mạng thế giới, là chỗ dựa và ủng hộ, giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình, dân chủ, tiến bộ của nhân loại; là lực lượng đối trọng với chủ nghĩa tư bản, đế quốc, khiến chúng không thể "làm mưa làm gió" trên trường quốc tế. Đó cũng là nhân tố khiến cho chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh mình, nếu không sẽ dẫn đến nguy cơ tan rã.
Như vậy, mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet đã có sự đóng góp lớn lao cho sự phát triển của nhân loại, có giá trị vẻ vang trong cả một chặng đường lịch sử. Mặc dù mô hình ấy đã sụp đổ, nhưng những giá trị nhân đạo, nhân văn của nó không mất đi, mà hòa vào dòng tiến hóa chung của nhân loại trên con đường tiến tới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa - xã hội nhân đạo hoàn bị.
Do ra đời trong điều kiện đặc biệt - trong vòng bao vây của chủ nghĩa đế quốc, luôn có nguy cơ bị tiêu diệt bởi chiến tranh đế quốc, trong khi cơ sở vật chất còn ở trình độ thấp (công nghiệp cơ khí, "văn minh công nghiệp ống khói") - và cũng do sai lầm chủ quan, ảo tưởng của các đảng cộng sản về sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet, ở Liên Xô cũng như ở một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây, đã mang tính chất "dân chủ quân sự", phi tự nhiên, đó là:
- Xóa bỏ mọi hình thức sở hữu tư nhân, xác lập chế độ công hữu trong toàn bộ nền kinh tế dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Trong điều kiện lực lượng sản xuất phát triển chưa đầy đủ, sở hữu tư nhân tất yếu còn tồn tại, vì nó còn tạo địa bàn cho lực lượng sản xuất phát triển. Và khi lực lượng sản xuất phát triển chưa đầy đủ, trình độ xã hội hóa chưa cao thì cũng không thể xác lập chế độ công hữu trong phạm vi toàn xã hội, có chăng chỉ xác lập được ở một số bộ phận của nền kinh tế. Mặt khác, xóa bỏ sở hữu tư nhân cũng có nghĩa là xóa bỏ lợi ích tư nhân của con người gắn liền với sở hữu ấy, mà lợi ích tư nhân chính là động lực hoạt động của con người và cũng chính là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Và như vậy, đã xóa bỏ động lực phát triển, gây nên trạng thái trì trệ. Còn chế độ công hữu được xác lập không dựa trên xã hội hóa sản xuất thì cũng không có cơ sở khách quan để xác lập thể chế kiểm soát, quản lý có hiệu quả, dẫn đến tình trạng vô chính phủ, "cha chung không ai khóc", gây nên tham nhũng, sử dụng không có hiệu quả tư liệu sản xuất, lãng phí của cải xã hội.
- Xóa bỏ thị trường tự do, trên thực tế đã hạn chế, triệt tiêu tác động của quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh; cũng chính là hạn chế, triệt tiêu động lực đổi mới kỹ thuật - công nghệ, động lực phát huy sức sáng tạo của con người. Và do vậy cũng xóa bỏ cơ chế tự điều chỉnh, tự cân đối, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế, xóa bỏ "bàn tay vô hình", sự tự điều tiết của thị trường. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế phi thị trường của Liên Xô trước đây, việc áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất so với các nước phương Tây có nền kinh tế thị trường diễn ra rất chậm, mặc dù sự phát minh khoa học - kỹ thuật của Liên Xô đứng vào hàng đầu thế giới. Chỉ có ngành công nghiệp quốc phòng, không gian vũ trụ là ứng dụng nhanh, còn các ngành khác, đặc biệt là công nghiệp hàng tiêu dùng, rất ít có sự thay đổi. Mặt khác, nền kinh tế kế hoạch hóa, phi thị trường cũng không thể thiết lập được sự cân đối liên ngành, một cơ cấu hợp lý, phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế luôn vận động, phát triển; bởi nó thiếu "bàn tay vô hình" tự điều tiết kinh tế phù hợp với quy luật khách quan, trong khi cân đối liên ngành theo kế hoạch hóa chỉ là sản phẩm chủ quan. Sự mất cân đối của nền kinh tế, cơ cấu kinh tế bất hợp lý phát sinh trong nhiều năm, không thường xuyên được khắc phục, tồn đọng lại và bộc lộ ra rõ nhất trong thời kỳ Liên Xô khủng hoảng và sụp đổ, dường như phải phá hủy toàn bộ và cấu trúc lại toàn bộ.
- Nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu và kế hoạch hóa dưới sự điều hành, chỉ huy trực tiếp của nhà nước. Nhà nước vốn là tổ chức quan liêu, trong khi kinh tế - xã hội lại luôn sống động, thay đổi, phát triển. Để có thể điều hành được kinh tế - xã hội, bộ máy nhà nước phải phình to lên, và càng phình to lên thì nó lại càng quan liêu, bất lực. Nhà nước ấy lại là một bộ phận của hệ thống chính trị được tổ chức theo kiểu hình tháp, trong đó Đảng ở đỉnh cao quyền lực, còn nhà nước và các tổ chức chính trị khác chỉ là cánh tay nối dài thực hiện mệnh lệnh của Đảng. Đó là một hệ thống chính trị tập trung quyền lực, nhưng lại thiếu cơ chế cân bằng và kiểm soát quyền lực. Do vậy, không chỉ hạn chế sự thích ứng và tự điều chỉnh của hệ thống, mà còn nảy sinh quan liêu, tham nhũng, lạm quyền, tha hóa quyền lực. Quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước vốn là của nhân dân, trở thành xa lạ, đối lập với nhân dân.
Những khuyết tật trên đã manh nha xuất hiện ngay từ khi mô hình Soviet mới được xác lập. Nhưng trong thời kỳ đầu của một chế độ mới, khi khí thế cách mạng của quần chúng còn đang dâng cao, những người cộng sản giữ vai trò lãnh đạo hết lòng vì nhân dân, xã hội đang cần sự đoàn kết, nhất trí, chỉ huy thống nhất để chống lại sự xâm lược từ bên ngoài, thì những khuyết tật trên ít biểu hiện ra hoặc bị che lấp đi. Hơn nữa, trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất, cơ sở vật chất là nền công nghiệp cơ khí, "văn minh công nghiệp ống khói", sự phát triển sản xuất chủ yếu theo bề rộng, thì mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet còn có khả năng thích ứng.
Những khuyết tật vốn có của mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet cứ âm thầm diễn ra trong nhiều thập kỷ và ngày càng trầm trọng là nguyên nhân nội sinh dẫn đến khủng hoảng của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Song, sự khủng hoảng còn do nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản xuất và bối cảnh quốc tế thay đổi. Từ sau thập kỷ 60 của thế kỷ XX, thế giới diễn ra cuộc cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ hai, rồi lần thứ ba, chuyển sang xã hội hậu công nghiệp, sản xuất cần phát triển theo bề sâu bằng việc ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại, thì mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet không còn thích ứng được nữa. Thực tế cho thấy, các nước tư bản với nền kinh tế thị trường ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ rất nhanh, còn các nước xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế hành chính, bao cấp lại ứng dụng rất chậm. Những năm 70, 80 của thế kỷ XX, các nước tư bản có bước tiến nhảy vọt về kinh tế - xã hội, còn các nước xã hội chủ nghĩa thì chững lại. Vấn đề ai thắng ai quyết định bởi năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khiến cho xu hướng đối đầu giữa hai hệ thống thế giới không còn phù hợp và chuyển sang đối thoại, hợp tác giữa các quốc gia dân tộc, các hàng rào ngăn cách bị xóa bỏ, mở đường cho giao lưu, hội nhập toàn cầu. Do vậy, vào những năm 80 của thế kỷ XX diễn ra cuộc khủng hoảng toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa. Các nước trong hệ thống này thực hiện công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới để chuyển đổi mô hình xã hội.
Sự chuyển đổi mô hình chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, nhưng có dẫn đến sụp đổ hay không lại trực tiếp phụ thuộc vào nhân tố chủ quan.
Thực tế cho thấy, ở những nơi mà những người cộng sản còn kiên định cách mạng, chưa bị tha hóa, như Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác, thì công cuộc cải cách, đổi mới giành thắng lợi. Bởi vì, khi có đội ngũ cán bộ kiên định cách mạng, sẽ đề ra được đường lối cải cách, đổi mới đúng đắn: cải cách, đổi mới để thay đổi mô hình chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập, nhưng vẫn giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu ấy bằng phương thức mới; có bước đi đúng đắn trong thực hiện công cuộc cải cách, đổi mới; mở rộng dân chủ và không chấp nhận đa đảng đối lập; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; hội nhập quốc tế, nhưng giữ vững độc lập về chính trị, tiếp tục thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội… Thành công trong thực tiễn công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc và công cuộc đổi mới của Việt Nam đã mở ra một triển vọng mới của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Thành công ấy có vai trò quan trọng của người đứng đầu các đảng cộng sản.
Còn ở những nơi mà lực lượng cầm quyền đã tha hóa, như ở Liên Xô trước đây, thì công cuộc cải tổ gặp phải thất bại. Bởi vì, khi đội ngũ cán bộ đã tha hóa, đặc biệt là cán bộ cấp cao, thì sẽ đề ra đường lối sai lầm và áp dụng vào thực tiễn thất bại - vì thực hiện cải tổ mô hình chủ nghĩa xã hội mà lại từ bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa; thiếu nhất quán về trình tự thực hiện cải tổ; muốn dựa vào các nước đế quốc bên ngoài để thực hiện cải tổ… Ở Liên Xô trước đây, sai lầm trước hết thuộc về Gorbachop, nguyên Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Do thực hiện đường lối cải tổ sai lầm của Gorbachop mà từ khủng hoảng kinh tế - xã hội đã dẫn đến khủng hoảng chính trị - xã hội, và sau đó, khủng hoảng chính trị lại làm trầm trọng thêm khủng hoảng kinh tế. Bất lực trước hiện thực, Gorbachop đã đi từ sai lầm đến phản bội, áp dụng những giải pháp chống phá Đảng Cộng sản - dùng phương tiện thông tin đại chúng tấn công vào hệ tư tưởng, xuyên tạc truyền thống vẻ vang của Đảng và dân tộc; xóa bỏ Điều 6 Hiến pháp Liên Xô, thực chất là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản về mặt pháp lý; thừa nhận đa nguyên, đa đảng, thực chất là tạo điều kiện cho các lực lượng chính trị đối lập lên nắm quyền lực chính trị; vô hiệu hóa các cơ quan chuyên công tác Đảng (Thường trực Ban Bí thư và các ban của Đảng); trung lập hóa lực lượng vũ trang (quân đội, cảnh sát), thực chất là tước quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với lực lượng vũ trang; rồi cuối cùng, giải tán Đảng Cộng sản Liên Xô… Kết quả là, chủ nghĩa xã hội sụp đổ, Liên Xô tan rã và Đảng Cộng sản mất vai trò cầm quyền, lãnh đạo.
Từ những sự phân tích trên cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội Soviet, chủ nghĩa xã hội dân chủ hoặc bất cứ mô hình xã hội nào khác đều không thể là mô hình hoàn thiện, hoàn mỹ. Có thể coi đó là những phương án của loài người nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra từ đời sống xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định. Những phương án này có những thành công, nhưng cũng có không ít khiếm khuyết, và khi điều kiện xã hội thay đổi thì cần có sự đổi mới hoặc được thay bằng phương án khác. Có thể nói, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình Soviet ở Liên Xô và Đông Âu là thất bại lớn của chủ nghĩa xã hội. Song điều đó không có nghĩa là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã đi vào “ngõ cụt”, là “con đường sai lầm” của lịch sử. Tiến lên chủ nghĩa xã hội là tiến tới xã hội nhân đạo hoàn bị, khắc phục mọi tha hóa, áp bức, bóc lột, bất công, bảo đảm điều kiện cho sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Với mục tiêu ấy, chẳng lẽ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội lại là sai lầm của lịch sử. Nếu con đường ấy dẫn đến "ngõ cụt" thì nhân loại sẽ đi đến đâu?./.

Lưu Văn SùngGS, TS, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
XVIII- Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô ( 1926 – 1937 )Viết lúc 1:44 trưa 25/12/2010
1)Đường lối : trong công nghiệp hóa cần lấy công nghiệp nặng làm nền tảng và ưu tiên phát triển công nghiệp nặng quá trình công nghiệp hóa ở Liên Xô tiến hành theo 3 bước
-Bước 1 : từ 1926 – 1927 là bước chuẩn bị , chủ yếu là khôi phục nền công nghiệp , xây dựng một số xí nghiệp vừa và nhỏ
-Bước 2 : kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( 1928 – 1932 ) là bước triển khai và có ý nghĩa quyết định Liên Xô đã xây dựng 1500 xí nghiệp có quy mô lớn và hiện đại
-Bước 3 : Kế hoạch 5 năm lần thứ 2 , đây là bước hoàn thành công nghiệp hóa Liên Xô đã xây dựng 4500 xí nghiệp có quy mô lớn và hiện đại làm cho giá trị sản lượng công nghiệp công nghiệp tăng 2,2 lần . Cuối năm 1937 Liên Xô tuyên bố hoàn thành công nghiệp hóa . Liên Xô đã từ vị trí thứ 5 lên thứ 2 trên thế giới và đứng đầu châu Âu
2)Đặc điểm :
-Ngay từ đầu Liên Xô đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng như : xây dựng hàng ngàn các xí nghiệp có quy mô lớn và hoàn chỉnh, tập trung vốn tối đa cho công nghiệp nặng ( 75 – 80% số vốn của toàn ngành công nghiệp ) , do vậy tốc độ tăng trưởng công nghiệp nặng cao hơn nhiều so với công nghiệp nhẹ ( 28,5 % và 10% )
-Nguồn vốn cho công nghiệp hóa ở Liên Xô hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn vốn trong nước được tạo ra từ các nguồn như tiết kiệm trong sản xuất , nguồn thu từ khu vực kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác , thu từ xuất khẩu những mặt hàng có thể mạnh , thu từ tiết kiệm công trái và các phong trào thi đua ngày thứ 7 , công nghiệp , cộng sản.
-Công nghiệp hóa Liên Xô được tiến hành theo kế hoạch tập trung , thống nhâtý , các chi tiết kế hoạch mang tính pháp lệnh nghiêm ngặt nhờ đó 2kế hoạch 5 năm được hoàn thành vượt mức kế hoạch trong vòng 4 năm 3 tháng
-Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa Liên Xô rất chú trọng xây dựng cơ sở vật chất để phục vụ nông nghiệp ( hàng loạt các nhà máy , xí nghiệp , sản xuất , máy cày , máy kéo đã ra đời để phục vụ nông nghiệp ) với bước đi này năm 1937 Liên Xô đã căn bản hoàn thành công nghiệp hóa .
3)Kết quả :
Liên Xô đã trở thành một nước công nghiệp phát triển đứng đầu châu Âu thứ 2 trên thế giới ( sau mỹ ) tốc đọ phát triển hàng năm là 14% , năm 1940 giá trị tổng sản lượn công nghiệp của Liên Xô tăng 7,7 lần so với năm 1913 , sản lượng công nghiệp chiếm 10% sản lượng công nghiệp của toàn thế giới
4)Hạn chế
-Do Liên Xô tập trung vốn đàu tư cho công nghiệp nặng , hạn chế đầu tư cho công nghiệp nhẹ nên dẫn đến sự mất cân đối giữa công nghiệp nặng so với công nghiệp nhẹ
-Công nghiệp hóa Liên Xô tiến theo kế hoạch tập trung và nghiêm ngặt , không kích thích được tính tích cực , năng động sáng tạo của cá nhân và tập thể người lao động
5)Bài học kinh nghiệm
-Trong thời kỳ khôi phục kinh tế , Liên Xô thực hiện chính sách kinh tế mới để phát triển  mạnh mẽ LLSX ở cả thành thị và nông thôn , chính sách này phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH
-Liên Xô tiến hành công nghiệp hóa XHCN đã ưu tiên phát triển công nghiệp nặng ngay từ đầu , điều đó phù hợp với bối cảnh quốc tế trong và ngoài nước của Liên Xô lúc đó , tuy nhiên đã làm cho nền kinh tế bị mất cân bằng về nhiều mặt , do đó các tiến lên CNXH với xuất phát điểm thấp , thực hiện công nghiệp hóa theo mô hình trên thì không hiệu quả và tỏ ra không thích hợp
-Trong thời kỳ xây dựng CNXH Liên Xô thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung , quan liêu bao cấp . Cơ chế đó chỉ phù hợp trong thời kỳ đầu khi mà nền kinh tế còn chủ yếu phát triển theo chiêu rộng và chế đó chỉ phù hợp những năm  chiến tranh , nhưng cơ chế đó chứa đựng nhiều nhược điểm làm giảm và triệt tiêu động lực của sự phát triển
-Bài học từ cuộc cải tổ và sự đổ mô hình CNXH : cuộc cải tổ nền kinh tế là việc tất yếu phải làm nhưng phải chuẩn bị kỹ vả về lý luận thực hiện cần có nhưng chủ trương và những bước đi đúng đắn trên cơ sở đúng đắn trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin , giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cải cách chính trị và cải cách kinh tế .
-Ngoại thương: Tổng kim ngách xuất nhập khẩu của Trung Quốc; năm 1978 là 20,6 tỉ USD, đứng thứ 32 trên thế giới thì đến năm 2006 là 1770 tỉ USD, đứng thứ 3 thế giới.
-Du lịch: giai đoạn 1978-1997 tốc độ tăng trưởng trung bình tăng 20%, năm 2005 TQ đứng thứ 4 trên tehé giới về thu hút khách với hơn 42tr người.
-Cơ cấu thành phần kinh tế: có sự chuyển dịch theo hướng tỉ trọng của khu vực kinh tế tư nhân tăng lên, tuy nhiên kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể vẫn chiếm ưu thế.
-Nông nghiệp: Đã đạt được một số kết quả và được đánh giá là thành công. Năm 2006, tốc độ tăng trưởng là 4,9%, sản lượng lương thực nhìn chung tăng nhanh qua các năm, năm 2006 là 490 triệu tấn, sản lượng các sản phẩm thủy hải sản chiếm 70% sản lượng thế giới.
-Công nghiệp: Phát triển đa dạng, sản phẩm phong phú, tốc độ tăng trưởng tăng cao qua các năm, năm 2006 tăng 13% so với năm 2004 là 11,1%, sản lượng của 20 sản phầm công nông nghiệp đứng đầu thế giới, trong đó 40% sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế.
-Thặng dư thương mại: năm 2002 là 20 tỉ USD, năm 2004 là 100 tỉ USD và năm 2006 là 177,5 tỉ USD. Các mặt hàng xuất khẩu của TQ chủ yếu là dệt may, điện tử, dụng cụ gia đình và bưu chính viễn thông.
-Dự trữ ngoại tệ: năm 2002 là 208 tỉ USD, năm 2004 là 450 tỉ USD đứng thứ 2 sau Nhật Bản, năm 2005 là 818,9 tỉ USD đứng đầu thế giới và năm 2006 là hơn 1000 tỉ USD đứng đầu thế giới.